Chuyển đổi số để hướng đến nông nghiệp xanh và phát triển bền vững
Quảng Ngãi, với diện tích tự nhiên hơn 14.800 km², địa hình đa dạng từ đồng bằng màu mỡ, miền núi trập trùng đến đảo Lý Sơn giàu tiềm năng, là nền tảng lý tưởng để phát triển nông nghiệp bền vững, ứng dụng công nghệ cao, nâng tầm giá trị gia tăng và khai thác tối đa lợi thế địa phương. Tỉnh đặt mục tiêu tăng trưởng giá trị nông, lâm, ngư nghiệp 3 – 4%/năm, đảm bảo an ninh lương thực với sản lượng lúa ổn định 300.000 – 350.000 tấn/năm, phát triển các giống cây trồng chịu hạn, chịu mặn.
Các sản phẩm chủ lực như tỏi Lý Sơn, quế Trà Bồng, sâm Ngọc Linh, cà phê, hồ tiêu, cao su và thủy sản được ưu tiên đầu tư chế biến sâu, đẩy mạnh xuất khẩu với mục tiêu chiếm 50% giá trị. Ngành nông nghiệp sẽ tái cơ cấu theo mô hình kết hợp Nông – Lâm – Ngư, trong đó nông nghiệp công nghệ cao chiếm 30% giá trị sản xuất, cơ giới hóa đạt 70 – 80%, và chuyển đổi số trở thành trụ cột trong sản xuất, quản lý và tiêu thụ.
Trong bối cảnh chuyển đổi số lan tỏa mạnh mẽ, nông nghiệp Quảng Ngãi đang bước vào giai đoạn đổi mới toàn diện, không chỉ là việc áp dụng công nghệ đơn thuần mà là một cuộc cách mạng tái cấu trúc toàn bộ chuỗi giá trị. Để đạt được mục tiêu đó, chuyển đổi số đóng vai trò then chốt, mang lại nhiều lợi ích thiết thực.
Trước hết, chuyển đổi số nâng cao năng suất, chất lượng và tính bền vững của sản xuất nông nghiệp. Các công nghệ như Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI) giúp nông dân tiếp cận thông tin chính xác về môi trường, đất đai, cây trồng; từ đó đưa ra quyết định hợp lý về tưới tiêu, bón phân, phòng trừ sâu bệnh, giảm chi phí, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sản phẩm. Công nghệ số còn giúp giảm phụ thuộc nhân công, tăng năng suất và đảm bảo sản phẩm đồng đều, góp phần cải thiện thu nhập cho người dân.
Thứ hai, chuyển đổi số mở rộng khả năng tiếp cận thị trường. Việc ứng dụng công nghệ giúp người tiêu dùng theo dõi, truy xuất nguồn gốc nông sản, kiểm chứng chất lượng theo thời gian thực, tạo niềm tin và nâng cao giá trị sản phẩm. Sự liên kết giữa sản xuất – tiêu dùng được thắt chặt, góp phần hạn chế tình trạng “được mùa mất giá” và hướng đến sản xuất ổn định, bền vững.
Thứ ba, chuyển đổi số còn giúp giảm thiểu thiệt hại do thiên tai, biến đổi khí hậu. Thông qua trí tuệ nhân tạo và phân tích dữ liệu, ngành nông nghiệp có thể dự báo sớm thời tiết, chủ động phòng chống dịch bệnh, bảo vệ năng suất cây trồng, vật nuôi.
Cuối cùng, chuyển đổi số tạo đột phá trong công tác quản lý nhà nước về nông nghiệp. Từ cấp Sở đến doanh nghiệp, việc ứng dụng dữ liệu số giúp đưa ra quyết định nhanh, chính xác, minh bạch và hiệu quả hơn; đồng thời giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy hình thành nền kinh tế nông nghiệp hiện đại.

Tuy nhiên, hành trình chuyển đổi số không dễ dàng. Quảng Ngãi vẫn còn nhiều khó khăn về hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt ở vùng nông thôn, miền núi. Chi phí đầu tư ban đầu cho thiết bị, cảm biến, phần mềm còn cao; trình độ, kỹ năng công nghệ của nông dân còn hạn chế; việc thay đổi thói quen sản xuất truyền thống sang mô hình số đòi hỏi thời gian và hỗ trợ đồng bộ. Bên cạnh đó, vấn đề quản lý và bảo mật dữ liệu cũng là thách thức khi lượng thông tin sản xuất và kinh doanh ngày càng lớn.
Để vượt qua, cần triển khai các giải pháp đồng bộ và quyết liệt. Trước hết, thay đổi nhận thức: Các cấp ủy Đảng, chính quyền cần tăng cường tuyên truyền, quán triệt sâu rộng vai trò, ý nghĩa của chuyển đổi số; giúp cán bộ, đảng viên và người dân hiểu rõ lợi ích, từ đó chủ động tham gia. Về nguồn vốn và hạ tầng công nghệ, cần ưu tiên đầu tư hệ thống thủy lợi, điện, giao thông, internet, trung tâm dữ liệu; ban hành chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư, đặc biệt là vốn FDI vào nông nghiệp số. Rà soát các dự án hạ tầng sử dụng ngân sách nhà nước, huy động thêm nguồn lực từ các chương trình mục tiêu quốc gia và xã hội hóa. Đồng thời, cần đơn giản thủ tục, tạo điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, công nhận tài sản công nghệ như nhà kính, ao nuôi, hệ thống tưới thông minh là tài sản thế chấp.
Về nguồn nhân lực, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành nông nghiệp, đội ngũ khoa học – công nghệ; tổ chức tập huấn kỹ năng số cho nông dân; phát huy vai trò của các tổ chức như Hội Nông dân, Phụ nữ, Đoàn Thanh niên trong hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm. Khuyến khích nông dân tiên phong trong ứng dụng công nghệ làm hạt nhân lan tỏa mô hình hiệu quả.
Xây dựng cơ sở dữ liệu nông nghiệp số là nhiệm vụ trọng tâm. Nhà nước cần dẫn dắt việc xây dựng hệ thống dữ liệu lớn, thống kê chi tiết từ các cơ quan chuyên môn; thiết lập mạng lưới giám sát sản xuất thông minh. Khuyến khích nông dân sử dụng nhật ký điện tử thay cho ghi chép truyền thống, góp phần hình thành kho dữ liệu chung phục vụ quản lý, dự báo và hoạch định chính sách.
Chuyển đổi số không chỉ là xu hướng tất yếu mà là nhu cầu cấp thiết để nâng cao đời sống nông dân và năng lực cạnh tranh của nông nghiệp Quảng Ngãi. Với quyết tâm của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, sự phối hợp của các sở, ngành, doanh nghiệp và người dân, tỉnh hoàn toàn có thể khai thác tối đa tiềm năng, vượt qua thách thức, xây dựng nền nông nghiệp xanh, thông minh, bền vững – góp phần phát triển kinh tế - xã hội và khẳng định vị thế của Quảng Ngãi trong kỷ nguyên số.
Phạm Thanh
Trung tâm Khuyến nông

