Trang thông tin điện tử

Sở Nông Nghiệp và Môi trường

A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Thích ứng quy định không gây mất rừng (EUDR) - Cơ hội và thách thức

Ngày 31/5/2023, Liên minh châu Âu (EU) đã ban hành Quy định số 1115/2023, còn gọi là EUDR – Quy định chống mất rừng và suy thoái rừng. Theo đó, kể từ cuối năm 2024, tất cả sản phẩm thuộc 7 nhóm hàng hóa chính (gỗ, cao su, cà phê, ca cao, dầu cọ, đậu nành, thịt bò) và các sản phẩm phái sinh (đồ nội thất, ván ép, gỗ dán, gỗ MDF; giấy, bìa carton, bút chì gỗ; bao bì gỗ, pallet) muốn xuất khẩu vào thị trường EU phải đáp ứng hai yêu cầu bắt buộc: không liên quan đến mất rừng và tuân thủ pháp luật của nước sản xuất.

Trong bối cảnh cả nước thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu và yêu cầu khai thác tài nguyên rừng, cụ thể là gỗ hợp pháp trở nên cấp thiết. Việc hợp nhất Quảng Ngãi và Kon Tum thành một tỉnh mới - tỉnh Quảng Ngãi với diện tích hơn 14.832 km², dân số trên 2 triệu người, có tới 43 dân tộc anh em sinh sống, đã mở ra nhiều điều kiện thuận lợi. Hiện nay, diện tích đất có rừng của tỉnh đạt khoảng 966.900 ha, đứng thứ 4 cả nước, tỷ lệ che phủ rừng đạt 59,45%. Định hướng đến năm 2030, diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh đạt khoảng 920.000 ha (rừng đặc dụng 115.310 ha, rừng phòng hộ 263.930 ha, rừng sản xuất 540.010 ha, tỷ lệ che phủ rừng đạt 60%). Trong đó diện tích rừng sản xuất chiếm hơn một nửa, tạo dư địa lớn để phát triển kinh tế lâm nghiệp gắn với yêu cầu bền vững.

Ảnh: Rừng trồng keo 3 năm tuổi tại xã Bình Sơn

Trong những năm qua, ngành lâm nghiệp Quảng Ngãi đã chủ động thực hiện một số giải pháp nhằm chuyển những thách thức thành cơ hội cho lĩnh vực lâm nghiệp tỉnh nhà, như: Từng bước hoàn thiện cơ sở dữ liệu số về đất lâm nghiệp, về rừng gắn từng lô rừng với những thông tin tương đối rõ ràng để đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc của EUDR. Cùng với đó, thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp với chủ rừng, giữa các chủ rừng với nhau, thực hiện hỗ trợ người trồng rừng tham gia các nhóm hộ hoặc hợp tác xã, hỗ trợ kinh phí để được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững.... thay vì để từng hộ nhỏ lẻ tự xoay xở. Ngoài ra, đối với doanh nghiệp tỉnh khuyến khích đầu tư vào chế biến sâu, tạo ra sản phẩm gỗ có giá trị cao, không cấp phép đầu tư mới đối với các nhà máy chế biến hoàn toàn dăm gỗ. Bên cạnh đó, Quảng Ngãi cũng cần tranh thủ các dự án trong và ngoài nước về thực hiện bảo vệ rừng, đào tạo, tập huấn nguồn nhân lực để nâng cao năng lực nhằm từng bước cải thiện, đáp ứng những quy định mới.

EUDR đang tạo nên làn sóng thay đổi lớn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.  Trong giai đoạn tới để thích ứng với EUDR, đối với lĩnh vực lâm nghiệp tỉnh nhà sẽ nhiều cơ hội, như:

Thứ nhất, EUDR thúc đẩy quá trình chuyển đổi quản lý rừng từ nhỏ lẻ sang có chứng chỉ quản lý rừng, truy xuất nguồn gốc rõ ràng, qua đó tạo động lực để ngành lâm nghiệp địa phương phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thứ hai, với hơn 170.000 ha rừng trồng (chủ yếu là keo, thông, lõi thọ), khi đáp ứng được tiêu chuẩn EUDR, gỗ rừng trồng Quảng Ngãi không chỉ tiêu thụ trong nước hay xuất sang thị trường truyền thống mà còn có thể trực tiếp vào EU với giá trị và tính ổn định cao hơn.

Thứ ba, quy định này cũng tạo điều kiện thu hút đầu tư công nghệ chế biến sâu, hình thành chuỗi cung ứng minh bạch. Nếu có hệ thống dữ liệu đất rừng và bản đồ số hóa vùng nguyên liệu đồng bộ, các doanh nghiệp chế biến gỗ của tỉnh sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn cho nhà đầu tư.

Thứ tư, việc thực thi EUDR còn giúp nâng cao vị thế ngành gỗ Quảng Ngãi trên trường quốc tế, khẳng định hình ảnh “ngành gỗ sạch, thân thiện môi trường”, đồng thời mở ra cơ hội tiếp nhận các dự án quốc tế về bảo tồn và phát triển chuỗi cung ứng xanh.

 

Ảnh: Rừng thông ba lá tại xã Măng Đen

Bên cạnh những cơ hội mới, ngành lâm nghiệp cũng đang đối mặt với những thách thức nhất định:

Một là, yêu cầu nghiêm ngặt về truy xuất nguồn gốc EUDR quy định mọi sản phẩm gỗ phải có thông tin chính xác về tọa độ lô đất, chứng minh không liên quan đến mất rừng sau ngày 31/12/2020. Trong khi đó, phần lớn diện tích rừng trồng Quảng Ngãi được quản lý bởi hộ gia đình nhỏ lẻ, chưa có hệ thống hồ sơ đất đai, thiếu dữ liệu số hóa, đây là rào cản lớn nhất.

Hai là, chi phí cao trong chứng nhận và tuân thủ để được công nhận đạt chuẩn, doanh nghiệp và hộ dân phải chi phí đáng kể cho cấp và duy trì chứng chỉ FSC/PEFC/VFCS với hơn 176.640,27 ha rừng trồng keo quy mô dưới 5 ha/hộ là rất lớn.

Ba là, nguy cơ mất thị trường nếu chậm thích ứng EU là thị trường gỗ cao cấp, nếu Quảng Ngãi không kịp đáp ứng yêu cầu EUDR, nguy cơ bị loại khỏi chuỗi cung ứng là hiện hữu. Điều này có thể kéo theo việc phụ thuộc hơn vào thị trường tiêu thụ truyền thống, vốn đã tiềm ẩn nhiều rủi ro về giá cả và tính bền vững.

Bốn là, hạ tầng dữ liệu và năng lực quản lý trong những năm qua đã được trang bị, cải thiện đáng kể, tuy nhiên vẫn còn hạn chế để thực hiện EUDR, cần hệ thống dữ liệu không gian chính xác về rừng trồng, đất rừng, chuỗi cung ứng.

Thích ứng với EUDR là một bước ngoặt lớn đối với lâm nghiệp Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Dù có nhiều thách thức, quy định này cũng mở ra cơ hội để địa phương tái cơ cấu lĩnh vực lâm nghiệp theo hướng bền vững, nâng cao giá trị và hội nhập quốc tế, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung, xanh và bền vững, góp phần thực hiện vào mục tiêu chung để phát triển kinh tế - xã hội bền vững cho tỉnh nhà.

 

Nguyễn Thị Kim Phi

                                                                                                  Chi cục Kiểm lâm