Nhìn lại 10 năm thực hiện Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi có bờ biển dài 130 km, vùng lãnh hải rộng khoảng 11.000 km², với hệ thống sinh thái ven bờ phong phú, đa dạng. Đây là nền tảng quan trọng cho phát triển kinh tế biển, nhưng cũng là khu vực chịu tác động mạnh của thiên tai, biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường. Trước yêu cầu phát triển bền vững, 10 năm qua, việc triển khai Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đã giúp tỉnh Quảng Ngãi có những chuyển biến rõ nét trong quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên biển, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và chủ quyền biển đảo.

Những kết quả nổi bật
Một là, điều tra cơ bản và nghiên cứu khoa học. Tỉnh đã triển khai nhiều hoạt động điều tra đất ngập nước, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ, nguồn lợi thủy sản vùng ven bờ… Kết quả cung cấp dữ liệu quan trọng phục vụ quản lý và hoạch định chính sách. Bên cạnh đó, các đề tài, dự án ứng dụng khoa học – công nghệ trong nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị đã được triển khai, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế và bảo vệ hệ sinh thái.
Hai là, thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển. Theo Quyết định số 749/QĐ-UBND ngày 28/8/2018 của UBND tỉnh, hành lang bảo vệ bờ biển tỉnh dài 80,8 km với diện tích 9,01 km², trải rộng tại 11/13 xã, phường, đặc khu có biển. Đây là công cụ quản lý quan trọng nhằm hạn chế khai thác, xây dựng thiếu bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học và bảo đảm quyền tiếp cận biển cho cộng đồng.
Ba là, triển khai quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ. Tỉnh đã ban hành Quyết định số 187/QĐ-UBND ngày 27/01/2016, với 9 nhiệm vụ, 4 nhóm nội dung. Đáng chú ý là việc ban hành bộ tiêu chí giám sát với 32 tiêu chí và 148 chỉ thị; xây dựng mô hình đồng quản lý tại Khu bảo tồn biển Lý Sơn, rừng ngập mặn Vạn Tường; thành lập tổ tự quản bảo vệ rong mơ tại nhiều xã. Công tác đào tạo, truyền thông được đẩy mạnh với hơn 1.200 lượt người tham gia, góp phần nâng cao ý thức cộng đồng trong quản lý biển.
Bốn là, kiểm soát ô nhiễm, ứng phó sự cố môi trường biển. Tỉnh đã phê duyệt trên 200 kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu, tổ chức 7 hội nghị tuyên truyền, 7 lớp tập huấn và 3 đợt diễn tập quy mô lớn, nâng cao năng lực chỉ huy, phối hợp liên ngành. Đồng thời, việc cấp phép và giám sát hoạt động nhận chìm vật chất nạo vét ở biển được thực hiện nghiêm theo Luật, với Quyết định số 07/2024/QĐ-UBND xác định rõ khu vực đổ thải, hạn chế tác động đến môi trường.
Năm là, quan trắc và giám sát môi trường. Quảng Ngãi đã khảo sát, thiết lập hệ thống quan trắc với 42 điểm nước biển ven bờ và 4 điểm trầm tích, chuẩn hóa quy trình đánh giá chất lượng môi trường biển. Đây là cơ sở khoa học để dự báo, cảnh báo sớm, chủ động ứng phó sự cố môi trường.
Định hướng sắp tới
Bên cạnh kết quả đạt được, công tác quản lý tài nguyên, môi trường biển vẫn còn nhiều khó khăn: Ý thức cộng đồng chưa cao; một số hoạt động khai thác ven bờ còn thiếu bền vững; biến đổi khí hậu, rác thải nhựa đại dương, xói lở bờ biển ngày càng phức tạp. Đặc biệt, yêu cầu hội nhập quốc tế đặt ra nhiều thách thức mới, như: Tuân thủ các công ước quốc tế, tiêu chuẩn phát thải, bảo tồn đa dạng sinh học biển.
Thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045, Quảng Ngãi xác định rõ định hướng: (1) Tăng cường quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và an ninh quốc phòng. (2) Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ cao trong giám sát, cảnh báo, xử lý ô nhiễm biển. (3) Phát triển kinh tế biển xanh, kinh tế tuần hoàn, chú trọng giảm rác thải nhựa và phát thải các-bon thấp. (4) Tăng cường hợp tác, huy động sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội vào quản lý, bảo vệ biển đảo.
Sau 10 năm triển khai Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, Quảng Ngãi đã đạt nhiều kết quả tích cực, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế biển bền vững. Tuy nhiên, trước những thách thức của biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế, tỉnh cần tiếp tục đổi mới phương thức quản lý, thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, hướng tới mục tiêu đến năm 2045 Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh. Đây cũng là định hướng phù hợp với chủ trương phát triển nông nghiệp và môi trường xanh, bền vững, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh trong giai đoạn tới.
Nguyễn Thị Thanh Nga
Chi cục Thủy sản – Biển đảo

